Thứ 7, 14/06/2025, 21:58[GMT+7]

Một thời máu và hoa

Thứ 6, 06/05/2016 | 21:03:57
1,294 lượt xem
Chiến thắng Điện Biên đã trôi qua hơn 6 thập kỷ nhưng ký ức về một Điện Biên Phủ - máu và hoa chưa bao giờ phai nhạt trong tâm trí những người lính đã từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa. Những ngày tháng 5 này, chúng tôi có dịp gặp một số cựu chiến binh ở xã Bình Định (Kiến Xương), được nghe kể về quá khứ hào hùng trong trận đánh chiếm sân bay Mường Thanh - một yết hầu trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của thực dân Pháp.

Những người lính Điện Biên gặp gỡ, ôn lại kỷ niệm mỗi khi tháng 5 về.

Ở tuổi 85 nhưng ông Hoàng Sĩ Oánh (thôn Trần Phú, xã Bình Định) vẫn còn rất minh mẫn. Khi nhắc đến hai từ Điện Biên, ông trở nên hoạt bát trong mỗi câu chuyện thời quá khứ. Cũng như bao lớp trai tráng tòng quân ra trận, tháng 6/1953, ông Oánh tình nguyện lên đường nhập ngũ. Sau 3 tháng huấn luyện tại Nho Quan (Ninh Bình), ông được biên chế về Đại đội 273, Tiểu đoàn 54, Trung đoàn 102, Sư đoàn 308. Đơn vị của ông được giao nhiệm vụ phối hợp với đơn vị bạn đánh lấn và cắt đứt sân bay Mường Thanh, không cho máy bay địch hạ cánh đưa thêm quân và tiếp tế lương thực, vũ khí cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Để đào giao thông hào, ông và các đồng đội phải nằm, dùng xẻng và cuốc chim đào hố cá nhân cho người lọt qua mặt đất rồi quỳ đào, đến độ sâu cho phép mới đứng đào. Việc đào hầm, hào chỉ diễn ra ban đêm, ban ngày nghỉ, dùng cây lá ngụy trang không để địch phát hiện. Vì đất sỏi đá rất cứng nên mỗi ngày một người chỉ đào được khoảng 2m giao thông hào chạy về hướng trung tâm sân bay. Ròng rã gần 3 tháng ăn, nằm, ngủ dưới lòng đất đào hầm, hào và đào ụ chiến đấu, đơn vị của ông Oánh đã tạo ra một hệ thống giao thông để bộ đội ta áp sát, siết chặt sân bay Mường Thanh chờ giờ khai hỏa.

Ông Oánh nhớ lại: Quân địch ý thức được mất sân bay là đồng nghĩa với thất bại liền kề nên đã tập trung hỏa lực đánh phá ác liệt vào ban đêm nhằm mục đích giành thế chủ động. Trên bầu trời Mường Thanh thời điểm đó không lúc nào ngớt tiếng bom nổ, pháo sáng như ban ngày. Anh em chiến sĩ đào hào vất vả, toét cả tay vì đất cứng và sẵn sàng đón nhận cái chết vì địch bắn như vãi đạn suốt ngày đêm. Những ngày diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, trời mưa như trút nước. Nước ngập hầm, hào, bộ đội ta phải dầm mình trong nước để sống và chiến đấu nên ghẻ lở toàn thân. Không chỉ vậy, muỗi và vắt rừng cũng thi nhau châm, cắn hút máu người. Rất nhiều anh em chết vì trúng đạn của địch và bệnh sốt sét. Gian khổ là thế nhưng không một ai mòn chí, sờn lòng, luôn quyết tâm xông lên chiến đấu.

Còn với cựu chiến binh Trần Đình Hòe, 88 tuổi, ở thôn Trần Phú, xã Bình Định thì ký ức về Điện Biên là những ngày đưa pháo vào trận địa. Đơn vị của ông là Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 45, Sư đoàn 351 được trang bị pháo 105 ly. Thực hiện chỉ đạo của cấp trên, đơn vị ông được lệnh di chuyển pháo vào trận địa chuẩn bị đánh cứ điểm Hồng Cúm vào ngày 30 tết. Vì khẩu pháo to và nặng cộng với đường vách núi dốc, cheo leo nên 14 người căng hết sức ra để kéo pháo. Tầm tã trong mưa gần 1 tháng trời kéo pháo vào trận địa, không chỉ tay rướm máu mà giày của bộ đội cũng chỉ vài ngày đã rách tướp, phải quấn rơm vào chân để tiếp tục kéo pháo nhưng hai bàn chân cũng phồng rộp, ứa máu. "Để tránh địch phát hiện, ngày chúng ta nghỉ, lấy cây rừng ngụy trang, đêm đến mới âm thầm đưa pháo vào. Đường dốc và một bên vách đứng, một bên vực thẳm, việc đưa pháo vào ban đêm rất nguy hiểm, nhất là lúc nhận lệnh rút pháo ra, đã có một đơn vị hy sinh toàn bộ cùng với khẩu pháo rơi xuống vực" - ông Hòe nhớ lại.

Cùng với pháo binh yểm trợ, bộ binh áp sát đánh giáp lá cà, đúng 13 giờ 45 phút ngày 22/4/1954, các đơn vị của ta từ các đường trục, đường hầm, ụ cố thủ xông lên truy kích. Nhận thấy không thể kháng cự trước sức tấn công của quân ta nên địch đã rút khỏi sân bay Mường Thanh. Đơn vị của ông Oánh cùng với Sư đoàn 308 và Sư đoàn 312 đã đẩy lùi 2 tiểu đoàn, bắn cháy 1 xe tăng, phá hủy 1 xe ủi đất, bắt sống 62 tù binh và thu giữ nhiều vũ khí của địch. Con đường tiếp tế cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với 16.000 binh lính tại khu lòng chảo này đã bị quân ta cắt ra làm nhiều mảnh và vô hiệu hóa. Từ chiều ngày 22/4, quân ta đã làm chủ sân bay Mường Thanh cho đến ngày giải phóng Điện Biên 7/5/1954.

Trong suốt chiến dịch này, dù với cách đánh sáng tạo: độn thổ, đánh lấn, chia cắt địch đã giảm bớt thương vong cho bộ đội ta trước hỏa lực cực mạnh của địch nhưng cũng có nhiều chiến sĩ đã anh dũng ngã xuống nơi lòng chảo Điện Biên. Khi nhớ về những người đồng đội cũ, ông Oánh, ông Hòe đều rưng rưng: Có những người bổ sung vào đơn vị, chúng tôi chưa kịp nhớ mặt, mấy hôm sau đã hy sinh. Có những người ngã xuống trong chiến trận chúng tôi không ghi được họ tên bởi trong người anh không có giấy tờ gì. Có anh mấy hôm trước khoe với tôi vừa nhận được tin ở quê nhà, nhờ anh em viết hộ thư về cho vợ là rất nhớ con, nhớ vợ, thế mà... Điên Biên thấm đẫm máu đào của các chiến sĩ, để rồi ngày 7/5/1954 đã đi vào lịch sử của dân tộc như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, đánh đổ chế độ đế quốc thực dân.

Nói về Điện Biên Phủ với những người lính cựu là nói tới máu xương và cũng đầy hoa. Thung lũng Mường Thanh rộng lớn nhưng sự sống, cái chết thật mong manh. Thế nhưng, bộ đội ta với tinh thần lạc quan và những nụ cười vẫn lóe sáng, coi thường cái chết. Ông Oánh kể: Giao thông hào chỗ nào cũng có nước, phải lội bì bõm. Để giảm bớt bị ngấm nước vào người, nhiều đêm đi đánh lấn, chúng tôi phải mặc quần đùi cho tiện. Tới sáng hôm sau, ai nấy mặt mũi đều lấm lem đầy bùn đất, chẳng ai nhận được ra ai...

Đồng bào các dân tộc Lai Châu (cũ) nhiều năm ròng bị bọn thực dân, đế quốc hà hiếp, cướp bóc, sống cảnh ngục tù. Nay được bộ đội giải phóng thì nhất mực yêu thương, đùm bọc bộ đội và phấn khởi vô cùng. Ngoài góp gạo, củi, muối, lợn, gà và vào rừng hái rau, măng cho bộ đội cải thiện bữa ăn, có sức khỏe để đánh giặc, bà con còn tổ chức giao lưu văn nghệ mừng bộ đội sau mỗi trận đánh thắng trở về. Điệu xòe hoa, nhảy sạp và các điệu dân vũ của nhiều đồng bào các dân tộc anh em cùng với hoa ban trắng đã thắp sáng cả núi rừng Tây Bắc, cổ vũ cho bộ đội ta chiến đấu. Giữa những giây phút sinh tử quyết chiến với quân thù, bộ đội ta vẫn cất cao tiếng hát, câu hò; được giao lưu với lực lượng dân công, hỏa tuyến, văn công nên với các chiến sĩ Điện Biên luôn có hoa nở ngay nơi đầu súng, hầm sâu.

Khắc Duẩn

  • Từ khóa

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày